BỆNH CHÁY BÌA LÁ TRÊN CÂY LÚA
Cháy bìa lá hay bạc lá lúa do vi khuẩn là bệnh phổ biến và gây hại nghiêm trọng ở hầu hết các nước trồng lúa, làm giảm sản lượng từ 6 đến 60%. Ở Việt Nam, bệnh này gây hại trên các giống lúa mùa trước đây và các giống lúa cao sản hiện nay. Bệnh bạc lá lúa phát sinh phá hại suốt thời kỳ mạ đến khi lúa chín.
Cháy bìa lá lúa do vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv. Oryzae
Ở đồng bằng sông Cửu Long, các giống lúa kháng có hiệu quả phòng trừ bệnh trước đây thì nay năng suất không cao và cũng không còn hiệu quả kháng bệnh trước sự biến đổi thành phần quần thể vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv. oryzae, nên bệnh cháy bìa lá càng bộc phát nặng, nhất là trong vụ Hè Thu và Thu Đông. Bên cạnh đó, nông dân sử dụng các loại thuốc trừ vi khuẩn một cách bất hợp lý trong thời gian dài với liều lượng lớn để phòng trị bệnh, làm ảnh hưởng không tốt đến môi trường, sức khỏe cộng đồng và người tiêu dùng.
Mưa nhiều trên diện rộng trong những ngày gần đây khiến cháy bìa lá dễ bùng phát
Nguyên nhân gây bệnh cháy bìa lá lúa
Do vi khuẩn Xanthomonas 0ryzae pv. Oryzae gây hại. Vi khuẩn có dạng hình gậy hai đầu hơi tròn, có một lông roi ở một đầu, kích thước 1 - 2 x 0,5 - 0,9 μm.
Nhiệt độ thích hợp cho vi khuẩn sinh trưởng từ 26 - 300C, ẩm độ cao từ 90% trở lên. Nhiệt độ tối thiểu 0 - 50C, tối đa 400C. Nhiệt độ làm vi khuẩn chết 530C. Vi khuẩn có thể sống trong phạm vi pH khá rộng từ 5,7 - 8,5, thích hợp nhất là pH 6,8 - 7,2.
Vi khuẩn xâm nhập có tính chất thụ động, có thể xâm nhập qua thuỷ khổng, lỗ khí ở trên mút lá, mép lá, đặc biệt qua vết thương sây sát trên lá. Khi tiếp xúc với bề mặt có màng nước, vi khuẩn dễ dàng di động xâm nhập vào bên trong qua các lỗ khí, qua vết thương mà sinh sản nhân lên về mặt số lượng, theo các bó mạch dẫn lan rộng đi. Trong điều kiện mưa ẩm thích hợp thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn, trên bề mặt vết bệnh tiết ra những giọt dịch vi khuẩn. Thông qua sự va chạm giữa các lá lúa, nhờ mưa gió truyền lan bệnh sang các lá khác để tiến hành xâm nhiễm lặp lại nhiều lần trong thời kỳ sinh trưởng của cây lúa.
Thửa ruộng bị nhiễm bạc lá lúa
Quy luật phát sinh phát triển của bệnh cháy bìa lá lúa
Vụ chiêm xuân, bệnh thường phát sinh vào tháng 3 - 4, phát triển mạnh hơn vào tháng 5 - 6 khi mà lúa chiêm xuân trỗ và chín, song ở vụ chiêm xuân mức độ bị bệnh thường nhẹ hơn, tác hại ít hơn so với vụ mùa trừ một số giống lúa xuân cấy muộn, nhiễm bệnh ngay từ khi lúa làm đòng thì tác hại của bệnh có thể sẽ lớn. Bệnh có thể phát sinh sớm vào tháng 8, khi lúa đẻ đến khi lúa làm đòng, trỗ - chín sữa với các trà lúa sớm. Bệnh phát triển mạnh vào giai đoạn cây lúa dễ nhiễm bệnh nhất lá lúc lúa làm đòng và chín sữa.
Những vùng đất màu mỡ, nhiều chất hữu cơ, bệnh thường phát triển nhiều hơn ở chân đất xấu, cằn cỗi, phân đạm vô cơ có ảnh hưởng rõ rệt tới sự phát sinh phát triển của bệnh. Các dạng đạm vô cơ dễ làm cho cây lúa nhiễm bệnh mạnh hơn đạm hữu cơ, phân xanh bón vùi giập cũng làm cho lúa nhiễm bệnh mạnh hơn phân chuồng ủ hoai mục.
Nếu bón quá nhiều đạm, cây lúa xanh tốt, thâm lá mềm yếu, hàm lượng đạm tự do trong cây tích luỹ cao thì cây dễ nhiễm bệnh nặng. Ở vụ xuân, có thể bón đạm với số lượng cao hơn vụ mùa. Bón phân sâu, bón tập trung, bón nặng đầu nhẹ cuối, bón thúc sớm làm cho cây lúa đẻ nhánh tập trung, đẻ nhanh thì bệnh bạc lá sẽ nhẹ hơn so với bón phân rải rác và bón muộn.
Thời kỳ mạ đến lúa đẻ nhánh là thời kỳ bệnh tương đối ít hơn so với giai đoạn cuối đẻ nhánh. Giai đoạn lúa làm đòng - trỗ - chín sữa là giai đoạn rất mẫn cảm với bệnh, hiện tượng này thể hiện khá rõ nét trên các giống lúa ngắn ngày.
Cháy bìa lá lúa
Triệu chứng bệnh bệnh cháy bìa lá lúa
- Bệnh bạc lá lúa phát sinh phá hại suốt thời kỳ mạ đến khi lúa chín, nhưng có triệu chứng điển hình là thời kỳ lúa cấy trên ruộng từ sau khi lúa đẻ - trỗ - chín - sữa.
- Trên mạ: triệu chứng bệnh không thể hiện đặc trưng như trên lúa, do đó dễ nhầm lẫn với các hiện tượng khô đầu lá do sinh lý. Vi khuẩn hại mạ gây ra triệu chứng ở mép lá, mút lá với những vệt có độ dài ngắn khác nhau, có màu xanh vàng, nâu bạc rồi khô xác.
- Trên lúa: Vết bệnh từ mép lá, mút lá lan dần vào trong phiến lá hoặc kéo dài theo gân chính, nhưng cũng có vết bệnh từ ngay giữa phiến lá lan rộng ra. Vết bệnh lan rộng theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng lục, lá nâu bạc, khô xác.
Biện pháp phòng trừ cháy bìa lá lúa
- Xử lý hạt giống trước khi gieo nếu lô hạt bị nhiễm.
- Bón phân đúng kỹ thuật, đúng giai đoạn, bón đạm nặng đầu nhẹ cuối, bón thúc sớm cân đối với kali theo tỷ lệ nhất định.
- Ruộng lúa cần điều chỉnh mức nước thích hợp, nên để mức nước nông (5 - 10cm), nhất là sau khi lúa đẻ nhánh, nếu thấy bệnh chớm xuất hiện thì có thể rút nước, tháo nước để khô ruộng trong 2 - 3 ngày để hạn chế sự sinh trưởng của cây.
- Trị bệnh: Thăm đồng thường xuyên, khi bệnh mới xuất hiện thì rút nước. Sử dụng H. Extra 150G + G-VK 200C. Bộ đôi quản lý cháy bìa lá lúa giúp khô vết bệnh sau 24-36 giờ phun và lưu dẫn trong cây 7 – 10 ngày giúp phòng sự lây lan của vi khuẩn khi mưa bão xảy ra.
Quản lý cháy bìa lá lúa
Công Ty CP TMDV Giang Tây
Add: 6/12 Lê Văn Sô - An Thới - Bình Thủy - Cần Thơ
Hotline: 0967.29.39.09 Email: giangtay.co@gmail.com
Xem thêm